NGỌC LỤC BẢO (EMERALD)


Emorot là loại đá quý được sử dụng và ưa chuộng từ 4000 năm trước công nguyên (thời Babylon), là loại đá quý có tính thương mại đầu tiên của loài người, là biểu tượng của thần Venus, thời cổ nó cũng tượng trưng cho luật pháp, sức mạnh và tình yêu. Emơrôt là đá sinh nhật tháng năm.

TỔNG QUAN

1. Khái quát chung

Tên gọi xuất xứ từ tiếng Hy Lạp “Smaragdos” có nghĩa là đá màu lục, và được người Ba tư và người Hindu cổ xưa sử dụng; ở thời kỳ cổ đại nó không những ám chỉ emơrôt mà còn là tên gọi cho phần lớn các đá màu lục khác.

Loại đá này được sử dụng và ưa chuộng từ 4000 năm trước công nguyên (thời Babylon). Emơrôt là loại đá quý có tính thương mại đầu tiên của loài người, là biểu tượng của thần Venus, thời cổ nó cũng tượng trưng cho luật pháp, sức mạnh và tình yêu. Emơrôt là đá sinh nhật tháng năm.

Nơi tìm thấy emơrôt đầu tiên trên thế giới là ven biển Hồng Hải ở Ai cập, đó là mỏ Cleopatra. Mỏ này được khai thác suốt 200 năm trước công nguyên và phần lớn emơrôt sử dụng làm trang sức thời bấy giờ là do mỏ này cung cấp.

 

2. Thành phần hóa học và cấu trúc tinh thể

2.1. Thành phần hóa học: Giống beril, nguyên tố tạo màu là Cr, đôi khi là V.

2.2. Cấu trúc tinh thể: Giống beril

3. Các tính chất vật lý và quang học

3.1. Các tính chất vật lý

– Tỷ trọng: 2,67 – 2,78.

– Các tính chất khác giống beril

3.2. Các tính chất quang học

– Màu sắc: Emơrôt thường có màu lục tới lục đậm. Màu lục của emơrôt không gì sánh được vì thế được gọi riêng là “lục emơrôt”. Nguyên nhân tạo màu lục là do Cr2O3, đôi khi là vanadi (Va). Màu sắc rất ổn định dưới tác dụng của ánh sáng và nhiệt, chỉ biến đổi nhiệt độ 700 – 8000C.

Màu được ưa chuộng nhất là màu lục thắm, còn màu lục nhạt, vàng lục, lục tối ít chuộng hơn. Màu sắc trong viên đá thường phân bố không đều, mà tạo thành các sọc hoặc đám màu. Sắt cũng thường xuyên có mặt trong emơrôt và làm giảm sự phát quang của đá.

– Chỉ số chiết suất: 1,576 – 1,582.

– Lưỡng chiết: 0,006.

– Phổ hấp thụ: 6835689666206460, 6370, 6300, 5800, 4774, 4725.

– Tính phát quang: Phát quang màu đỏ. Dưới kính lọc Chelsea cũng cho màu đỏ. Sự phát quang này có thể bị giảm đi khi có mặt củ Fe, và có thể không phát quang.

– Đặc tính quang học: một trục âm.

4. Đặc điểm bao thể

Thông thường emơrôt chứa các bao thể tự nhiên như: bao thể lỏng với bọt khí và các bao thể cứng khác. Những bao thể đó là chứng cứ cho nguồn gốc tự nhiên của viên đá so với loại tổng hợp và mô phỏng.

– Bao thể rắn trong emơrôt:pyrit, sylvin, parisit (một khoáng vật đất hiếm), bao thể tinh thể âm định hướng song song với trục của tinh thể. Đặc biệt trong emơrôt hay có các màng sương nên người ta có tên gọi cho loại này là “emơrôt vườn cảnh” .

5. Các phương pháp xử lý và tổng hợp

– Emơrôt được tổng hợp trong công nghiệp chủ yếu bằng phương pháp nhiệt dịch và ít hơn là phương pháp chất trợ dung “flux”.

Công thức:

Be 3 Al 2 (Si 6 O 18 )
Hệ tinh thể:

lục giác
Tên: Ngọc lục bảo được ưu tiên hơn beryl trong vai trò tên khoáng sản. Ngọc lục bảo được biết đến từ thời cổ đại và được đánh giá cao như một loại đá quý. Vào những năm 1790, Louis Nicolas Vauquelin, người phát hiện ra crom, đã chứng minh rằng ngọc lục bảo và beryl về cơ bản là cùng một hợp chất hóa học và ngọc lục bảo, sensu strictu, có chứa crom. Tuy nhiên, ngọc lục bảo tiếp tục được coi là tên loài được ưa thích trong nhiều thập kỷ và ngọc lục bảo cuối cùng đã bắt đầu được sử dụng làm tên đa dạng cho beryl vào những năm 1830. Các báo cáo mới về ngọc lục bảo đề cập đến beryl màu lục bình thường hoặc thậm chí xanh lam vẫn tồn tại trong văn học nghiệp dư cho đến tận thế kỷ XX. Vào cuối thế kỷ 20, người ta phát hiện ra rằng một số viên ngọc lục bảo chứa nhiều vanadi hơn crom.
Một loại đá quý màu xanh lá cây thuộc loại beryl, được đánh giá cao như một loại đá quý. Phần lớn ngọc lục bảo chất lượng đá quý trên thế giới đến từ khu vực Muzo của Colombia.

Màu sắc của ngọc lục bảo là do một lượng nhỏ chất mang màu như crom hóa trị ba hoặc vanadi hóa trị ba.

Các sự xuất hiện và trầm tích ngọc lục bảo được phân thành hai loại chính: [1]
(Loại I) Magma liên quan đến kiến ​​tạo với các tiểu loại có trong: (
IA) Đá siêu mafic (Brazil, Zambia, Nga và các loại khác);
(IB) Đá trầm tích (Trung Quốc, Canada, Na Uy, Kazakhstan, Australia);
(IC) Đá granit (Nigeria).
(Loại II) Biến chất kiến ​​tạo liên quan với các tiểu loại tập trung ở:
(IIA) Đá siêu mafic (Brazil, Áo);
(IIB) Đá phiến đen-đá trầm tích (Colombia, Canada, Mỹ);
(IIC) Đá biến chất (Trung Quốc, Afghanistan, Mỹ);
(IID) Bị biến chất và tái di chuyển hoặc là trầm tích loại I hoặc trầm tích granit ẩn giấu liên quan đến xâm nhập (Áo, Ai Cập, Úc, Pakistan) và một số trầm tích chưa được phân loại

Ngọc lục bảo từ Thung lũng Panjshir ở Afghanistan hơi khác về đặc tính đá quý so với các đặc tính ngọc học có nguồn gốc khác và có thể được phân biệt và xác định bằng các thể vùi ba pha có răng cưa chứa nhiều tinh thể, sự hấp thụ quang phổ cận hồng ngoại chiếm ưu thế loại I, và Li và C từ trung bình đến thấp, Sc từ trung bình đến cao và Na từ trung bình đến thấp. Nó có màu nhạt hơn, hàm lượng kim loại kiềm thấp hơn và phức tạp hơn trong các thể vùi ba pha khí-lỏng so với ngọc lục bảo từ Thung lũng Swat, Pakistan. [2]

 

Bài viết liên quan